Hội Lim Bắc Ninh: Đặc sắc dân ca quan họ

Mỗi dịp đầu xuân, mọi người đều háo hức mong chờ các lễ hội truyền thống diễn ra khắp nơi. Trong số đó, Hội Lim ở Bắc Ninh là một trong những lễ hội nổi tiếng và quen thuộc nhất. Đây là lễ hội của các làng xã cổ quanh núi Lim và hai bên bờ sông Tiêu Tương, được xem là sự kiện quan trọng của vùng, thể hiện đậm nét văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh của người dân Kinh Bắc.

Nguồn gốc và lịch sử 

Nguồn gốc của Hội Lim được lưu truyền qua nhiều câu chuyện khác nhau. Một số quan điểm cho rằng Hội Lim bắt nguồn từ hội chùa và hội hát, gắn liền với tiếng hát của chàng Trương Chi. Dấu tích xưa còn lưu lại là dòng sông Tiêu Tương, in đậm trong ký ức của các làng quê vùng Lim. Giả thuyết này dựa trên truyền thuyết về Trương Chi – Mỵ Nương, một câu chuyện tình buồn đầy huyền thoại.

Đám rước hội Lim

Hội Lim có lịch sử lâu đời và từng phát triển thành lễ hội quy mô cấp tổng (tổng Nội Duệ). Nền tảng của hội dựa trên các lễ hội truyền thống của các làng thuộc tổng Nội Duệ, bao gồm 6 xã phường: Nội Duệ (Đình Cả và Lộ Bao), Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Lũng Giang, Xuân Ổ và phường hát cửa đình Tiên Du (sau này là Duệ Đông). Lễ hội diễn ra với nhiều nghi lễ rước, tế lễ cùng các hoạt động nghệ thuật dân gian phong phú như hát trống quân, hát chèo, ca trù, hát tuồng và đặc biệt là hát quan họ.

Viên quận công Đỗ Nguyên Thụy, người thôn Đình Cả, Nội Duệ, xứ Kinh Bắc, có công lớn trong việc phát triển Hội Lim. Ông đã hiến nhiều ruộng vườn, tiền của để trùng tu đình chùa, mở rộng hội hè và gìn giữ thuần phong mỹ tục. Đỗ Nguyên Thụy còn đặt ra lễ nhập tịch cầu phúc vào tháng Giêng hàng năm theo truyền thống “xuân thu nhị kỳ”. Nhờ đó, từ một lễ hội đình tế thần cầu phúc của các làng xã, ông đã phát triển Hội Lim thành lễ hội cấp tổng Nội Duệ vào mùa thu, tháng Tám, đồng thời xây dựng những lệ tục đầu tiên cho lễ hội mùa xuân, tháng Giêng.

40 năm sau, vào nửa sau thế kỷ XVIII, cũng chính người làng Đình Cả, tướng công Nguyễn Đình Diễn lại tiếp tục phát triển và đổi mới hội Lim. Ông đã cấp ruộng và tiền cho hàng tổng để chuyển hội hàng tổng từ mùa thu tháng Tám sang hẳn mùa xuân tháng Giêng. Ông cũng bỏ tiền mua nửa quả núi Hồng Vân (tức núi Lim) để xây lăng mộ của mình trên đỉnh núi.

Hội Lim được duy trì trong suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước, hội Lim không được mở trong nhiều thập kỷ cho đến tận những năm sau đổi mới. Ngày nay, hội được mở vào ngày 13 tháng Giêng âm lịch hàng năm.

Lễ rước ở Hội Lim 

Hội Lim bắt đầu bằng một lễ rước. Thành phần đoàn rước là những người dân được mặc bộ lễ phục thời xưa với màu sắc sặc sỡ. Trong ngày lễ chính (ngày 13 tháng Giêng) với các nghi thức rước, tế lễ các thành hoàng các làng, các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng, lăng Hồng Vân, lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy, dâng hương cúng Phật, cúng bà mụ Ả ở chùa Hồng Ân. Ngoài phần lễ, hội còn có nhiều trò chơi dân gian như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm… và đặc sắc hơn cả là phần hát hội.

Đám rước hội Lim

Truyền thống xa xưa để lại một phong tục cuốn hút và say mê đặc biệt mà chỉ Bắc Ninh mới có, đó là các sinh hoạt văn hóa hát dân ca Quan họ – loại hình dân ca đã trở thành tài sản văn hóa chung của dân tộc. Hát dân ca Quan họ diễn ra từ ngày 12 tháng Giêng tại Lim (sân chùa Hồng Ân và các trại Quan họ) và khắp tại các chùa, đình. Hội hát Quan họ Bắc Ninh diễn ra ở bất cứ nơi đâu: trong nhà, trên sân đình, trước cửa chùa hay bồng bềnh trên những thuyền thúng giữa ao, hồ – dấu tích xưa của dòng Tiêu Tương đã một thời vang vọng tiếng hát Trương Chi làm say đắm nàng Mỵ Nương xinh đẹp. Chỉ cần nơi đó có các liền anh, liền chị.

Liền anh liền chị hát Quan họ Bắc Ninh
Liền anh liền chị hát Quan họ Bắc Ninh

Hội Lim là một lễ hội truyền thống chắc chắn những người yêu thích du lịch hay cả những người yêu nét đẹp văn hóa dân tộc cũng nên trải nghiệm. Những áo mớ bảy mớ ba, nón ba tầm, quai thao, dải yếm lụa sồi, những ô lục soạn, khăn đóng, áo cặp the hoa gấm… như ẩn chứa cả sức sống mùa xuân của con người và tạo vật. Cách các ông, các bà tổ chức hội Lim cũng thật đặc biêt, mỗi biểu tượng, cử chỉ như mang trong mình thứ gì đó tinh tế lạ thường của ngừoi kinh Bắc. Bởi vậy, chẳng phải ngẫu nhiên mà Quan họ trở thành văn hóa phi vật thể, nét văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Khánh Linh

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *