Hát ả đào, còn được gọi là ca trù, hiện nay được nhiều người biết đến như một thể loại nhạc dân gian nhưng trước đây là dành riêng cho tầng lớp quý tộc.
Người con gái hát giỏi được gọi là họ Đào, từ đó những ai theo nghề hát này đều được gọi là “Đào hát”. “Đào nương” hay “ả Đào” đều chỉ người con gái làm nghề hát xướng. Tùy từng địa phương và thời điểm mà nghệ thuật này có nhiều tên gọi khác nhau như hát ca trù, hát ả đào, hát cô đầu, hay hát nhà tơ. Dù dưới tên gọi nào, ca trù luôn gắn liền với các đào nương: “không có đào nương bất thành ca trù, khi nói đến ca trù không thể không nói tới đào nương”. Để trở thành một đào nương cần nhiều tiêu chuẩn khắt khe như giọng hát, năng khiếu âm nhạc, tri thức âm nhạc và văn thơ, cùng lòng đam mê và kiên trì. Các đào nương chính là những người giữ gìn và phát huy cái hay, cái đẹp của ca trù, giúp ca trù tồn tại đến ngày nay.

Theo sử sách và dân gian ghi chép, hát ả Đào xuất xứ từ Thăng Long, nơi hội tụ những người quyền quý, với nhu cầu thưởng thức đời sống tinh thần phong phú. Thăng Long có thể là nơi khởi nguồn hoặc ít nhất là mảnh đất màu mỡ làm nghệ thuật này thăng hoa.
Trong các tên gọi của nghệ thuật này, hát ả đào và hát ca trù được biết đến nhiều nhất. Tên ả đào ban đầu dùng để chỉ những người theo nghiệp ca xướng. Còn ca trù, theo cách giải thích, “ca” nghĩa là hát, “trù” nghĩa là tre. Ngày xưa, giấy bút ghi điểm hiếm, người thưởng thức dùng thẻ tre để ném thưởng cho đào hát. Sau canh hát, ả đào đem thẻ vào nơi tổ chức để lĩnh thưởng. Mỗi thẻ một tiền, 60 thẻ được lĩnh một quan tiền. Từ đó, tên ca trù được dùng để chỉ nghệ thuật hát ả đào.

Hát ả đào còn dùng trong hát thờ thần, gọi là hát “cửa đình”. Trong lễ hội, bên trong đình, đền, quan viên tế lễ còn ngoài cửa đình, các phường múa hát. Các đào hát phải biết múa, phục vụ cho thần linh và người xem, thể hiện sự thành kính với thần linh. Nghệ thuật này cũng được sử dụng trong cung đình và trong các gia đình giàu có.
Đối với giới tri thức, quý tộc, họ lập ban hát, viết lời cho đào hát biểu diễn ngay trong dinh thự. Ví dụ, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật và Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc thời Trần lập ban hát. Nghệ thuật hát ả đào trở thành niềm tự hào của dân tộc. Câu chuyện về một đào hát dùng giọng hát và rượu tẩm độc để giết giặc Minh ở Hưng Yên là một minh chứng. Bà được vua khen thưởng và dân lập đền thờ, nơi đó gọi là “Đào xá”.
Hát ả đào tổ chức thành phường, giáo phường, do trùm phường và quản giáp cai quản. Nghề này có quy chế truyền nghề, cách học đàn, học hát và phong tục nhận diện đào nương. Nâng hát ả đào thành nghệ thuật tao nhã, nhạc thính phòng của quý tộc, thượng lưu bắt đầu từ thời Lê – Nguyễn. Thăng Long, nơi hội tụ những con người hào hoa, đã tạo nên nghệ thuật hát ả đào làm say đắm lòng người. Những nghệ sĩ tài hoa được đại thi hào Nguyễn Du tôn kính trong “Long thành cầm giả ca”. Xã hội coi đào hát là “xướng ca vô loài”, nhưng Nguyễn Du thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc. Nghệ thuật hát ả đào từ thế kỷ 18, 19 và đầu thế kỷ 20 đạt đến mức hoàn chỉnh với các nhà nho lừng danh như Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến đặt lời cho bài hát, làm nhạc – thơ này hấp dẫn người nghe.

Vào cuối thế kỷ 20, Hà Nội có những nghệ nhân là đỉnh cao của ca trù như: Cụ Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Chúc, Phó Kim Đức, Đinh Khắc Ban, Đinh Thị Nghĩa, Đinh Thị Bản… Họ đều là những nghệ nhân bậc thầy với những lối hát khác nhau, mỗi người một phong cách nhưng đều giữ tất cả các nguyên tắc của ca trù. Ví như, nghệ nhân Quách Thị Hồ có lối hát đổ hột rất sâu, người ta thường gọi đổ hột “con kiến” mà các nghệ nhân khác khó lòng theo được. Mỗi người, mỗi giáo phường, mỗi vùng có một phong cách hát riêng. Các thế hệ bậc thầy đi qua, nhiều người lo rằng, căn gốc của ca trù khó được giữ đúng quy chuẩn. Nhưng thực tế, sau một thời gian thăng trầm của ca trù, trước khi nhiều nghệ nhân ra đi đã kịp truyền dạy cho một số người trẻ có tâm huyết. Bởi vậy, Hà Nội vẫn còn những ca nương, kép đàn giữ được những lối hát cũ, đảm bảo các quy chuẩn nhất định.

Nghệ thuật hát ả đào được nâng lên tầm nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu thưởng thức âm nhạc của người Thăng Long, yêu cầu thời gian dài hình thành và phát triển. Trải qua nhiều biến đổi, hát ả đào vẫn giữ giá trị độc đáo và xứng đáng được UNESCO công nhận là “Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp”.
Tin cùng chuyên mục:
Trò Xuân Phả: Vũ điệu sân đình ẩn mình trong dòng lịch sử
“Ca Trù – Khi tiếng phách gõ nhịp thăng trầm Văn hóa Việt”
Kiến trúc Quảng trường Ba Đình lịch sử
Phở Hà Nội – tinh hoa ẩm thực đất Hà Thành