Ô Quan Chưởng (hay còn gọi là ô Đông Hà, ô Thanh Hà, ô Cửa Đông, tên chữ là Đông Hà môn (tức cửa phường Đông Hà), là một cửa ô của Hà Nội xưa, nằm ở phía Đông của toà thành đất bao quanh Kinh thành Thăng Long, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia Long thứ ba (1817) được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến ngày nay. Đây là một trong 21 cửa ô còn sót lại của thành Thăng Long cũ.
Ngày nay, ô Quan Chưởng nằm trên phố Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, gần dưới chân cầu Chương Dương. Thời xưa, ô Quan Chưởng nằm trên đường từ trong thành phố đi ra bờ sông, thuộc địa phận phường Đông Hà, tổng Hậu Túc (sau đổi là Đồng Xuân), huyện Thọ Xương cũ. Từ cửa ô ra đến bờ sông Hồng là con đường dài tám chục mét. Phía ngoài cửa ô trước kia coi như đất ngoại thành.
Cổng xây có vọng lâu được canh gác và kiểm soát cẩn mật để giữ an ninh cho khu phố buôn bán bên trong. Hiện cửa ô còn nguyên lối tam quan với cửa chính và hai cửa phụ hai bên, trên nóc cửa chính có vọng lâu, tường phía trái cửa chính có gắn một tấm bia đá do Tổng đốc Hoàng Diệu cho đặt năm 1881 ghi lệnh cấm người canh gác không được sách nhiễu nhân dân mỗi khi qua lại cửa ô. Bên trên cửa lớn có ba chữ Hán 東河門 (Đông Hà môn).
Ca dao về Ô Quan Chưởng có câu:
Long Thành bao quản nắng mưa
Cửa Ô Quan Chưởng bây giờ còn đây.
Lịch sử Cửa Ô Quan Chưởng
Ô Quan Chưởng được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749) triều đại nhà Lê. Năm Cảnh Hưng thứ 46 (1785), cửa ô này được đại tu. Đến năm Gia Long thứ 3 (1804) thì được xây dựng lại, mở rộng quy mô như hiện tại.
Ban đầu, cửa ô này được gọi là Đông Hà Môn, nhưng sau đó người dân lại gọi đây là Ô Quan Chưởng. Theo lịch sử lưu truyền, điều này là để tưởng nhớ công lao của một viên Chưởng cơ và đội quân 100 binh lính do ông chỉ huy đã anh dũng chiến đấu với quân Pháp để bảo vệ thành Hà Nội.
Sau khi chiếm được thành Hà Nội, quân Pháp đã phá hết các cửa ô Thăng Long để mở rộng thành phố. Các cửa ô khác đều đã bị phá hủy, duy chỉ còn Ô Quan Chưởng là được giữ lại do vấp phải sự đấu tranh quyết liệt của nhân dân ta.
Ô Quan Chưởng được theo phong cách kiến trúc phong kiến nhà Nguyễn, kiểu vọng lâu 2 tầng. Tầng 1 có 3 cửa dạng vòm cuốn. Cửa chính giữa cao và rộng 3m, 2 bên là cửa phụ cao 2,5m và rộng 1,65m. Bên ngoài 2 cổng phụ có bậc thang dẫn lên vọng lâu tầng 2. Tầng 2 là vọng lâu 4 mái, nơi vọng gác của quân lính trước kia. Trong vọng lâu có một ban thờ nhỏ, nơi thời viên Chưởng cơ và các binh lính đã hy sinh khi bảo vệ thành Hà Nội năm 1873.
Ô Quan Chưởng đã đứng ở đây suốt hơn 200 năm qua, cũng chứng kiến tất cả các sự kiện diễn ra tại Hà Nội trong những năm tháng xưa cũ. Năm 1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Thủ đô chìm trong mưa bom bão đạn, Ô Quan Chưởng cũng lỗ chỗ nhiều vết đạn bom. Ô Quan Chưởng ngày nay tuy mang trên mình nhiều vết thương, gánh trên mình nhiều hậu quả từ chiến tranh ác liệt vẫn sừng sững hiên ngang, vẫn là biểu tượng của kinh thành sầm uất thời ấy và di tích lịch sử hiếm hoi còn sót lại ngày nay.
Diệu Linh
Tin cùng chuyên mục:
Nghề làm bánh Pía tỉnh Sóc Trăng: Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia
Chi hội Di sản văn hóa Trần Nhân Tông Bình Dương: Để Di sản văn hóa Việt Nam luôn phát huy và tỏa sáng
Chi Hội Di Sản Văn Hóa Kỷ Nguyên Mới – Tôn Vinh Giá Trị Văn Hóa và Truyền Thống Việt
Kỷ niệm 20 năm thành lập Hội Di sản Văn hóa Việt Nam