Sáng sớm ở Huế, khi sương còn đọng trên nhành cau, từ những con hẻm nhỏ bên bờ sông Hương đã lan tỏa mùi thơm ngai ngái của mắm ruốc, của tóp mỡ, của hến xào… Mùi hương ấy dẫn lối ta tìm đến một món ăn bình dị mà nổi tiếng khắp xứ: cơm hến – món nghèo mà chan chứa tình người và hồn cố đô.
Món ăn của dân nghèo bên sông Hương
Cơm hến có nguồn gốc từ xóm Cồn Hến – một cù lao nhỏ nằm giữa sông Hương (phường Vỹ Dạ, Huế).
Từ xưa, người dân nơi đây sống bằng nghề xúc hến, thứ sản vật nhỏ bé nhưng dồi dào của dòng sông hiền hòa. Trong những ngày khó, họ tận dụng hến còn sót lại, trộn với cơm nguội, thêm ít rau sống, tóp mỡ, nước hến chan lên là thành bữa ăn đạm bạc mà ấm lòng.

Không ai ngờ, món cơm nghèo của dân chài ấy lại trở thành một biểu tượng ẩm thực Huế, được người khắp nơi biết đến và nhớ thương.
Đơn sơ mà tinh tế – nét riêng của người Huế
Một tô cơm hến đúng kiểu Huế là bản hòa tấu của nhiều hương vị: mặn – cay – ngọt – béo – chát – bùi hòa quyện tinh tế. Thành phần gồm cơm nguội trắng, hến xào khô, rau sống xắt nhỏ (chuối chát, khế, rau thơm, giá đỗ…), lạc rang, tóp mỡ, hành phi, ớt chưng và mắm ruốc.
Tô cơm được bày ra, người ăn rưới thêm nước hến nóng – thứ nước ngọt thanh nhưng dậy mùi mắm ruốc Huế – rồi trộn đều. Cái hay của cơm hến nằm ở chỗ người Huế ăn nguội mà vẫn thấy ấm, bởi cái cay nồng của ớt, cái béo của tóp mỡ, cái ngọt tự nhiên của hến quyện lại khiến bát cơm dân dã trở thành món ăn tinh tế.

Người Huế vốn thanh nhã, mà ăn cơm hến cũng phải “nề nếp”: trộn vừa tay, ăn chậm rãi, để cảm nhận từng vị. Có người nói, ăn cơm hến là học cách kiềm chế – vì nếu vội, ớt cay và mắm ruốc sẽ “thử thách” người không quen.
Cái duyên ấy, có lẽ cũng là nét riêng của người cố đô: đơn giản, nhưng sâu sắc; bình dân, mà không tầm thường.
Người bán cơm – kẻ kể chuyện phố phường
Đi dọc những con đường nhỏ như Trương Định, Nguyễn Huệ, hay ra tận Cồn Hến, ta vẫn dễ bắt gặp hình ảnh quen thuộc: một gánh hàng, đôi quang tre, mấy chiếc tô sành, khói mắm ruốc quyện trong sương.
Bà chủ quán vừa thoăn thoắt xúc cơm, vừa kể chuyện: “Ngày xưa cơm hến chỉ là cơm nguội còn lại, ai ngờ nay thành đặc sản. Mỗi năm khách về Huế đều hỏi: ‘Có còn bán cơm hến như cũ không?’.”

Câu chuyện của bà như kể thay cho Huế – một thành phố sống chậm, nơi cái nghèo cũng biết làm thơ, nơi món ăn dân dã hóa thành hồn phố.
Từ gánh cơm nghèo đến di sản ẩm thực
Giờ đây, cơm hến không chỉ có ở Huế. Ở Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng đều có hàng “Cơm hến Cồn Hến” do người xứ Huế mang theo. Nhưng chỉ ở cố đô, ăn cơm hến mới “đúng điệu”: giữa buổi sáng lành lạnh, bên gánh hàng nhỏ, nghe tiếng mời chào nhẹ như gió, ăn bát cơm cay nồng mà thấy lòng ấm.

Nhiều nhà nghiên cứu ẩm thực cho rằng, cơm hến là minh chứng sống động cho triết lý ẩm thực Huế: tiết kiệm, tinh tế và biết tìm cái đẹp trong cái nghèo. Không nguyên liệu đắt đỏ, không cầu kỳ, nhưng món ăn vẫn có hồn, bởi chứa đựng cả sự khéo léo, tấm lòng và thói quen chắt chiu của người dân nơi đây.
Vị nghèo mà sang
Quả thật, giữa những món ăn cung đình xa hoa, cơm hến lại kể một câu chuyện khác – câu chuyện của những người dân lam lũ nhưng biết yêu đời, biết giữ lấy bản sắc. Để rồi hôm nay, mỗi khi ai đó về Huế, giữa muôn món đặc sản, vẫn chọn một bát cơm hến nóng hổi, cay xè, để nghe lòng mình dịu lại – như đang trò chuyện cùng dòng sông Hương, cùng những tháng năm giản dị mà thẳm sâu.
Tin cùng chuyên mục:
Sắp ra mắt tour đêm tại Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam
Cơm hến – món nghèo kể chuyện cố đô
Tháng 10 ăn rươi – vị mùa thu trên đầu đũa người Hà Nội
Hát Then gọi mùa – Cao Bằng trong tiếng đàn tính và bát thắng cố nóng hổi