Vào Ngày Quốc khánh lần thứ 24 (2/9/1969), đất nước phải chịu một mất mát lớn khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tổ chức phiên họp đặc biệt và bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước thay thế Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bài phát biểu đầy xúc động, Chủ tịch Tôn Đức Thắng nói: “Được kế nhiệm chức vụ của Hồ Chủ tịch là một vinh dự lớn đối với tôi.”
Từ đầu năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam, đã đề cử đại biểu Quốc hội Nam Bộ, đồng chí Tôn Đức Thắng, vào vị trí Phó ban Thường trực Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục đề nghị đồng chí tham gia phái đoàn Quốc hội sang thăm Quốc hội Pháp (tháng 5-6/1946) và dự đàm phán Pháp-Việt tại Fontainebleau (tháng 7-8/1946).
Trong kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I tại Hà Nội, vào phiên họp ngày 8/11/1946, khi Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh từ chức để Quốc hội lựa chọn người thành lập Chính phủ mới, đại biểu Nam Bộ Tôn Đức Thắng đã đứng lên phát biểu giới thiệu Cụ Hồ Chí Minh “là người xứng đáng hơn ai hết để đứng ra thành lập Chính phủ mới”. Hành động của đại biểu Tôn Đức Thắng đã phá vỡ âm mưu của phái hữu, những kẻ muốn chiếm đoạt vị trí lãnh đạo vận mệnh quốc gia trong thời điểm nguy nan.
Bước vào kháng chiến toàn quốc, đồng chí Tôn Đức Thắng tiếp tục gánh vác thêm hai nhiệm vụ mới: Bộ trưởng Bộ Nội vụ (5/1947-11/1947) và Thanh tra đặc biệt toàn quốc (8/1947). Khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, đồng chí giữ vai trò Trưởng ban Thường trực Quốc hội (1955-1960). Trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa II, đồng chí Tôn Đức Thắng cùng nhiều đại biểu Nam Bộ khác tiếp tục được bầu lại, và tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa II (tháng 7/1960), cựu Trưởng ban Thường trực Quốc hội Tôn Đức Thắng được cử làm Phó Chủ tịch nước. Từ tháng 9/1969, Phó Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã nhận vinh dự “kế tiếp chức vụ của Hồ Chủ tịch” và giữ vị trí này cho đến khi đất nước thống nhất. Cuộc bầu cử Quốc hội chung cả nước lần thứ hai (năm 1976) dẫn đến việc thành lập Quốc hội thống nhất, và Quốc hội khóa VI trong năm đó đã quyết định thành lập nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội, cụ Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ những ngày đầu giữ vai trò Chủ tịch nước đã tuyên bố rằng: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.” Kế nhiệm vị trí lãnh tụ tối cao của quốc gia, Chủ tịch Tôn Đức Thắng cũng chỉ mong muốn “được như một đảng viên cộng sản bình thường như bao đảng viên khác, mong muốn được là một công dân trung thực, lương thiện, luôn cố gắng mang lại điều tốt, niềm vui và giảm bớt nỗi đau cho đồng bào.”
Khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị Chính trị đặc biệt (tháng 3/1964), được coi là một Hội nghị Diên Hồng lần thứ hai trong lịch sử dân tộc. Từ đó, một cao trào thi đua đã được phát động với khẩu hiệu “Mỗi người làm việc bằng hai, ra sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc, tích cực ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam”, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979, trước nguy cơ xâm lược từ 60 vạn quân của kẻ thù, ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đã ký Sắc lệnh 29/LCT, ra lệnh tổng động viên cả nước đứng lên chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn của khối đoàn kết toàn dân, đặc biệt là đoàn kết Bắc-Nam, và Chủ tịch Tôn Đức Thắng chính là hiện thân của tinh thần đoàn kết đó. Từ năm 1946, khi bắt đầu tham gia lãnh đạo khối đoàn kết toàn dân, cho đến khi qua đời năm 1980, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã có 27 năm liên tục làm công tác Mặt trận, từ Phó hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (1946-1951), đến Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Mặt trận Liên Việt (1951-1955), Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955-1977) và Chủ tịch danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1977-1980). Bác Tôn luôn nhắc nhở lời dạy mang tính chân lý lịch sử của Bác Hồ: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Năm 1960, trong bài phát biểu chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc câu thơ chứa đựng tình cảm quốc tế sâu sắc: “Quan sơn muôn dặm một nhà; Bốn phương vô sản đều là anh em!”. Năm 1964, khi phát biểu tại Hội nghị Quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống Mỹ, cứu nước ở Hà Nội, Bác Tôn đã kết thúc bằng câu thơ giản dị nhưng đầy tình cảm: “Nam Bắc hai miền chung đại nghĩa; Năm châu bốn biển một gia đình.”
Dù là Chủ tịch nước, Trưởng ban Thường trực Quốc hội hay Chủ tịch Mặt trận, Bác Tôn vẫn luôn sống một cuộc sống khiêm tốn và giản dị, nhân từ và đức độ, trung thực và nghĩa tình khiến cho mọi lớp tuổi đều nhìn thấy ở Bác Tôn một người anh cả, một người cha, một người ông trong gia đình. Được tin có người bạn tù cũ đang công tác ở Nông trường Lương Sơn (Hòa Bình), Bác Tôn tự mình đến thăm mà không chờ bạn đến với mình, bởi nghĩ “làm Chủ tịch nước, họ ngại nên tôi phải đến gặp trước”. Được tặng Giải thưởng Lenin “Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc” có kèm theo mười vạn rúp, Chủ tịch Tôn Đức Thắng ủng hộ số tiền này cho Phong trào bảo vệ thiếu nhi thủ đô. Đi thăm Liên Xô, bạn đưa một vạn rúp để mua quà, Chủ tịch Tôn Đức Thắng chỉ mua một chiếc cối xay hạt tiêu tặng vợ, còn lại đem gửi trả bạn vì không dùng đến. Sống giữa thủ đô, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng vẫn có một bộ đồ nghề chữa xe, ngày nghỉ thì tự sửa chữa, lau chùi chiếc xe đạp thường dùng, sửa chữa đồ dùng trong gia đình, tự sửa chiếc radio bị hỏng… Trung ương từng ba lần thu xếp cấp nhà riêng ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng lần nào Bác Tôn cũng kiên quyết từ chối, vì quen nếp sống giản dị, bình dân và liêm khiết.
Bác Tôn thường nói ít, phát biểu ngắn gọn, đi vào công việc cụ thể, thiết thực, không lý luận dài dòng, mà vẫn thể hiện được những điều cốt lõi trong quan điểm, đường lối của Đảng. Mọi công việc từ nhỏ đến lớn đều được Bác Tôn giải quyết một cách điềm tĩnh, nhẹ nhàng và chắc chắn. Trong buổi lễ trọng thể mừng thắng lợi tại Dinh Thống Nhất ở Sài Gòn (ngày 15/5/1975), Chủ tịch Tôn Đức Thắng nhắc đến Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh như nhắc nhở chính mình phải thay Bác Hồ “đi khắp hai miền Nam, Bắc để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý“.
Diệu Linh
Tin cùng chuyên mục:
Nghề làm bánh Pía tỉnh Sóc Trăng: Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia
Chi hội Di sản văn hóa Trần Nhân Tông Bình Dương: Để Di sản văn hóa Việt Nam luôn phát huy và tỏa sáng
Chi Hội Di Sản Văn Hóa Kỷ Nguyên Mới – Tôn Vinh Giá Trị Văn Hóa và Truyền Thống Việt
Kỷ niệm 20 năm thành lập Hội Di sản Văn hóa Việt Nam