9 bảo vật quốc gia được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam

Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam vinh dự có 09 hiện vật được công nhận là Bảo vật Quốc gia. Việc xét đề nghị công nhận Bảo vật Quốc gia đối với những tác phẩm mỹ thuật có ý nghĩa đặc biệt trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Dưới đây xin trân trọng giới thiệu tới quý độc giả 09 Bảo vật Quốc gia thuộc sở hữu của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

1. Phật bà Quan Âm, Chùa Hội Hạ, tỉnh Vĩnh Phúc, Thế kỷ XVI, gỗ phủ sơn, 314x215x157(cm). Tác phẩm được công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2013.

Đây là một trong những pho tượng Quan Âm Bồ Tát bằng gỗ có phong cách nghệ thuật thời Mạc lớn và đẹp nhất miền Bắc Việt Nam. Đức Quan Âm phát nguyện có ngàn tay ngàn mắt để đem lại an vui, lợi ích cho chúng sinh. Tượng có bố cục chặt chẽ, hài hòa, khối tượng đầy đặn. Đường nét trên gương mặt căng tròn viên mãn, trang phục tượng giản dị, nhưng trang trí trên mũ và bệ tượng rất cầu kỳ, tài khéo. Hai bên thân tượng tỏa ra 42 cánh tay trần tựa những cánh hoa mềm mại, cân đối. Các bàn tay tượng đều cầm pháp khí hoặc kết ấn, nhiều pháp khí nay không còn (ta vẫn có thể kể ra được căn cứ vào 42 thủ nhãn ấn pháp theo chú Đại Bi). Mặt quỷ đội tòa sen gợi nhắc hình ảnh Long thần đưa Đức Quan Âm vượt biển Nam Hải tới Phổ Đà Sơn. Nổi lên trên mặt biển còn có 2 cành sen nhỏ vươn sang hai bên đỡ Thiện Tài Đồng Tử và Long Nữ theo hầu Đức Quan Âm.

2. Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, Chùa Mật, tỉnh Thanh Hóa, đầu thế kỷ XVII, gỗ phủ sơn, cao 122cm. Tác phẩm được công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2013. 


Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (1595-1660) là con gái chúa Trịnh Tráng. Năm 1630, sau khi chồng bà bị tội giam, bà được gả cho vua Lê Thần Tông và tấn phong Hoàng hậu. Sau, bà đi tu, được suy tôn Thánh Thiện Bồ Tát. Tượng thể hiện bà trong trang phục hoàng gia đang ngồi thiền định, đầu đội mũ báu Adiđà Phật (mũ Bồ Tát Quan  m thường đội), cổ đeo tràng hạt. Đây là đại diện xuất sắc cho nghệ thuật tạo tượng Hậu Phật Việt Nam.

3. Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ, Nguyễn Sáng, 1963, sơn mài, 122,3x180cm. Tác phẩm được công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2013. 


Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng
(Tố Hữu)

Chín năm sau thiên sử vàng chấn động địa cầu, năm 1963 tại Hà Nội, khúc tráng ca Điện Biên Phủ lại trở về lẫm liệt, ngạo nghễ trên bức tranh sơn mài của họa sỹ Nguyễn Sáng (1923-1988), ghi tên mình vào sự nghiệp vô giá của người họa sỹ tài hoa.Dưới mưa bom bão đạn gầm gào ở chảo lửa Điện Biên, trong không khí khẩn trương, căng thẳng của chiến sự, một buổi lễ kết nạp Đảng đang diễn ra ngay giữa chiến hào. Trong tranh xuất hiện tám chiến sỹ, bảy người gần như dàn hàng ngang choán hết không gian tiền cảnh – chia làm hai nhóm, phía xa là một chiến sỹ đang hối hả chạy đi. Những chuyển biến nhanh, mạnh, không khí khẩn trương của buổi kết nạp thể hiện qua những chi tiết nhỏ như gương mặt nhớn nhác nhìn thẳng lên bầu trời, canh gác của anh chiến sỹ và xa xa phía sau là cảnh người chiến sỹ đang lao mình vào trận địa, tiếp tục cuộc chiến.

4. Em Thúy, Trần Văn Cẩn, 1943, sơn dầu, 60,5×45,5cm. Tác phẩm được công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2013.


Tác phẩm Em Thúy của họa sỹ Trần Văn Cẩn (1910-1994) là bức tranh chân dung xuất sắc của hội họa hiện đại Việt Nam. Khác với các tác phẩm chân dung vẽ các thiếu nữ mơ màng, ánh mắt lơ đãng đang nhìn nghiêng hoặc cúi mặt thường thấy ở thể loại tranh chân dung của các họa sỹ giai đoạn Mỹ thuật Đông Dương nửa đầu thế kỷ 20, Em Thúy gây ấn tượng khác biệt bởi ánh nhìn trực diện, như “đối thoại” với người xem. Em bé gái khoảng 8 tuổi, đôi mắt đen láy mở to không chút ngờ vực, chiếc mũi bé xinh, đôi môi mọng chúm chím, cặp má bầu bĩnh, mái tóc rẽ lệch ngôi. Vẻ đẹp trong sáng, khoảng lặng bình yên trong đôi mắt, trên gương mặt trẻ thơ làm dịu mát tâm hồn người đối diện. Bức tranh có bố cục giản dị nhưng để lại rung cảm cho người xem.

5. Hai thiếu nữ và em bé, Tô Ngọc Vân, 1944, sơn dầu, 100,2x75cm. Tác phẩm được công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2013. 


Tô Ngọc Vân (1906-1954) thuộc thế hệ họa sỹ tài năng hàng đầu của nền Mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Ông là một trong những người đặt nền móng và có nhiều công phu xây đắp cho nền mỹ thuật hiện đại non trẻ này.
Dưới hiên nhà một gia đình tiểu tư sản thành thị, hai thiếu phụ đang ngồi tâm sự, cạnh đó là đứa bé trai đang lủi thủi chơi một mình. Ba nhân vật, mỗi người nhìn theo một hướng khác nhau. Không gian như ngừng lại ở một khoảnh khắc mà dường như khi đó, chẳng có mối liên hệ nào giữa họ.
Bố cục tam giác của ba nhân vật trong tranh là dạng bố cục cổ điển được Tô Ngọc Vân thể hiện một cách duyên dáng đến kỳ lạ. Lối vẽ màu phẳng, không vờn, ông chú trọng tinh thần sáng tạo hơn là tả chân dáng nhân vật. Những đường thẳng, đường cong trong tranh đều mạch lạc, bay bướm. Tranh mang vẻ đẹp dịu dàng. Màu vàng đất pha chút sắc cam ấm là màu chủ đạo kết hợp hài hòa với màu trắng, hồng phớt, xanh lục và hồng cánh sen tả được những sự rạo rực, xao xuyến trong tâm hồn; cảnh buồn mà vẫn có nét tươi vui.

6. Cánh cửa chạm rồng, Chùa Keo, tỉnh Thái Bình, Thế kỷ XVII, gỗ, 226x244x7cm. Tác phẩm được công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2017. 


Đây là bộ cửa tam quan nội chùa Keo ở Vũ Thư, Thái Bình. Lối chạm khắc, trang trí cửa đền, chùa, đình, miếu theo hình thức này là đặc trưng ở trấn Sơn Nam xưa (phía nam kinh thành Thăng Long). Trong đó, bộ cánh cửa chùa Keo là bộ cửa đẹp, lớn nhất. Bộ cửa được ghép từ nhiều tấm gỗ, trên đó chạm khắc đôi rồng ngậm ngọc chầu mặt trời. Đôi rồng tạo hình lá đề ẩn mình giữa rừng mây đao mác và ngọc báu; sau đuôi và dưới bụng mỗi con rồng lớn là một con rồng, nghê nhỏ đang hướng đầu lên. Kỹ thuật chạm bong, kênh được sử dụng tài khéo gợi chiều sâu không gian. Sự chuyển động ấn tượng của các đao mác vút ra từ đầu, lưng, thân, khuỷu chân rồng cùng với dáng vận động tích cực của các con vật tạo nên một hoạt cảnh sống động.

7. Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc, Dương Bích Liên, 1980, sơn mài, 100x180cm. Tác phẩm được công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2017.  


Với bút pháp phóng khoáng, dạt dào đầy cảm xúc, Dương Bích Liên (1924-1988) dựng lên một không gian núi rừng Việt Bắc hùng vĩ. Bác Hồ cùng con ngựa núi đang chuẩn bị qua suối, ngựa đóng yên, người đang vỗ về trìu mến. Người và ngựa hòa trong sắc vàng óc của đất trời, dòng nước và những tảng đá bên bờ suối. Nhân vật chính của tác phẩm được đặt ở vị trí 1/3 bên phải tranh. Không gian mênh mông của núi rừng, của đất, của trời được thể hiện cô đọng lại ở hai mảng màu chính là vàng và xanh lục đậm, gần như chia đôi tranh. Cái xao xác của núi rừng, của dòng nước cuộn chảy, của những rệ cỏ, tảng đá, mô đất ven suối, của những mảng mây vàng sáng phía xa được thể hiện hết sức sinh động. Con người làm chủ thiên nhiên mà không cần gồng mình chống đỡ khoảng không vô cùng bao bọc; cử chỉ âu yếm, vỗ về của Bác với con ngựa cho người xem một cảm thức sâu xa về tấm lòng nhân hậu của vị cha già dân tộc.
Tác phẩm giàu chất hiện thực lãng mạn, thể hiện được vẻ đẹp của con người, thiên nhiên Việt Nam bằng bút pháp tinh tế. Bảo tàng Mỹ thuật đã mua tác phẩm này tại Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 1980.

8. Bình phong, Nguyễn Gia Trí, 1939, sơn mài, 155,5x400cm (gồm 8 tấm ghép lại). Tác phẩm được công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2017. 


Nguyễn Gia Trí (1908-1993) là họa sỹ tiên phong, cũng là người đưa sơn mài lên vị thế cao quý trong hội họa hiện đại Việt Nam. Trên con đường dần từ bỏ phối cảnh, bỏ cách bắt chước sự vật thật, bỏ đề tài để tìm đến lối vẽ trừu tượng, Bình phong đánh dấu thời kỳ đầu của nghệ thuật sơn mài Nguyễn Gia Trí, giai đoạn mà ông đánh giá là “chưa có kinh nghiệm” (Nguyễn Gia Trí trò chuyện với cán bộ nghiên cứu Bảo tàng Mỹ thuật năm 1976 tại nhà riêng). Bình phong được Nguyễn Gia Trí thực hiện cho Dinh Bảo Đại ở số 2 Đà Lạt. Đến năm 1978, tác phẩm được chuyển về Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Bằng nghệ thuật đồng hiện, những mảnh ghép cuộc đời người phụ nữ (tuổi thơ ngây, lúc đương thì con gái, lúc lập gia thất, khi về già) hiện ra sinh động trong khu vườn trần thế. Có thể thấy, đây là giai đoạn mà Nguyễn Gia Trí vẫn đang chủ tâm diễn tả các sắc độ của con người, cây cối, dáng điệu, trang phục một cách chân thực. Bằng tài năng xuất chúng, Nguyễn Gia Trí đã khiến con người, cảnh vật trên bức Bình phong đạt tới vẻ đẹp rất thực, rất sống động, tự nhiên, tươi mới trên nền cảnh lộng lẫy vàng son – vốn là đặc thù cố hữu của sơn mài. Ngôn ngữ tạo hình phương tây hiện đại kết hợp với cách thể hiện đề tài mang tính ẩn dụ và bố cục đồng hiện của nghệ thuật Á đông tạo nên nét riêng độc đáo, đậm tính dân tộc của tác phẩm.

 

9. Gióng, Nguyễn Tư Nghiêm (1922-2016), 1990, sơn mài, 90×120,3cm. Tác phẩm được công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2017. 


Cùng với Điệu múa cổ, Kiều và 12 con giáp, Gióng là một trong những chủ đề được Nguyễn Tư Nghiêm thể hiện nhiều. Một trong số những tác phẩm thể hiện Gióng xuất sắc nhất là tác phẩm đạt giải nhất tại Triển lãm mỹ thuật toàn quốc 1990. Bảo tàng Mỹ thuật đã mua Gióng ngay tại triển lãm này.
Tranh Gióng của Nguyễn Tư Nghiêm vừa đậm chất dân tộc vừa mang tính hiện đại. Thể hiện nhân vật trong huyền sử, Nguyễn Tư Nghiêm dẫn dắt người xem về thế giới cổ xưa. Hình tượng Gióng trong trang phục thường thấy ở các nhân vật thuộc nghệ thuật Đông Sơn cởi trần, đeo tấm chắn ngực, phần thân dưới bên ngoài lớp khố là chồng lớp những xẻ vạt trước sau.
Năm 1972, bộ sưu tập điêu khắc gỗ dân gian đình làng của Bảo tàng Mỹ thuật được giới thiệu, Nguyễn Tư Nghiêm như được chắp cánh, trở về với đúng bản tính dân tộc mà ông theo đuổi. Nghệ thuật của Nguyễn Tư Nghiêm thể hiện cái nhìn chính xác, táo bạo, giản dị, khái quát và biến ảo.

Diệu Linh

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *